Vietnamese Art

Dương Thùy Dương: Cô đơn trong những nét cọ rối by Phuong Nguyen

"Trăm năm cô đơn"
Dương Thùy Dương, sơn dầu trên toan, 160 x 120cm.
Trong loạt tranh "The Humanimal", 2019

-

Tôi tìm thấy tranh của chị Dương sau triển lãm "Những hành tinh của Agnes" trên mạng và gần như ngay lập tức cảm thấy có một cơn sóng lớn ụp lên người rồi cuốn phăng mình đi. Đó là loạt tranh chị vẽ chân dung - một dòng tranh nhiều thử thách, dễ sa vào lối mòn, dễ để lộ điểm yếu và thường không chừa nhiều chỗ so sáng tạo. Thế nên tôi càng ấn tượng khi thấy chị vẽ hẳn 60 bức chân dung, càng sốc hơn khi mỗi bức tranh lại có một bút pháp riêng biệt, tiềm tàng trong từng vệt bút là ẩn ý về câu chuyện chị muốn kể.

Phong cách định danh thống trị trong hầu hết tác phẩm của chị Dương là nét cọ rối (confusing lines). Trong thời gian tìm hiểu về chị, tôi đang đọc một cuốn sách về DNA, trong đó có một câu khiến tôi rất ấn tượng: ba ý niệm khoa học mang tác động lớn nhất trong thế kỷ 20 là nguyên tử, byte và gen. Mỗi cái đại diện cho một đơn vị tối giản bất khả phân: nguyên tử của vật chất, byte của thông tin số hoá và gen của thông tin di truyền sinh học. Tác phẩm của chị Dương bao trùm lên ba mảng tách rời nhưng liên hệ mật thiết này, vừa trữ tình vừa đậm tính khoa học. Những lỗ đen vũ trụ lấp ló trong nhụy hoa, sự hoài thai trên gương mặt bí ẩn của Agnes, những chấm nhỏ gợi nhớ đến mã điện tử binary tạo nên dung nhan những hình tượng tôn giáo, sự lai hoá giữa con người với động vật và cả cơ khí, AI... Những chủ đề chị chạm tới chắc chắn không dành cho toàn thể đại chúng mà chỉ những người có một chút nền tảng và sự hiếu kỳ về những mảng khoa học này. Bên dưới những bức chân dung của chị là những câu hỏi cắc cớ về vấn đề triết học muôn thuở: ta là ai? thế giới ta đang sống là gì? Ta sẽ đi về đâu? Câu trả lời của mỗi người sẽ tùy thuộc vào thế giới quan và bể kiến thức của riêng mỗi người, nhưng đối diện những bức chân dung này, tôi lờ mờ nghiệm thấy được viễn kiến của riêng chị. Chị không đưa cho ta câu trả lời trực tiếp, và cũng vì vậy hầu hết tranh của chị không có tên, đây là một cái tôi thường không thích, nhưng trong case riêng biệt này lại phù hợp và cần thiết, bởi chị đang kiến tạo nên một thế giới mới. Đi vào vô định để tìm lời giải đáp cho những câu hỏi mang tính hiện sinh này là một hành trình đầy tính cá nhân, và người hoạ sĩ đã làm đúng phần việc của chị: để cánh cửa ngỏ mời chúng ta bước vào vũ trụ tâm trí mở rộng mà không cho ta một lời giải thích nào cả.

Và vì thế mà tôi cho rằng chị là một visionary painter. Nếu bạn tìm hiểu về visionary art trên google thường kết quả sẽ cho ra những bức tranh sặc sỡ mang tính psychedelic, và đó là kết quả chưa đúng. Visionary art không hoàn toàn là một art movement, không có một phong cách, bút pháp cụ thể, và cũng không có một chủ đề nhất định nào, mỗi một visionary artist sẽ có một cách tiếp cận riêng, nhưng cái core trong tác phẩm của họ sẽ có những yếu tố tương đồng: xoá nhoà ranh giới giữa hiện thực và ảo mộng, lồng ghép những yếu tố tâm linh huyền bí và khoa học viễn tưởng, qua đó kiến tạo nên một thế giới mới và mời ta bước vào đó qua trải nghiệm thị giác. Trong quá khứ, những visionary painters kiệt xuất như William Blake và Hyeronymus Bosch thường vẽ về những chủ đề mang đậm tính tôn giáo, để người xem có thể hình dung về một thế giới xa xôi vô hình mà họ chỉ có thể hình dung qua thi ca, kinh thánh, và vì vậy mà "vision" không chỉ đơn thuần là thị giác, mà còn có thể hiểu như là thị kiến, một khái niệm mang tính tôn giáo chỉ những người đã được thánh thần mở mắt. Tuy nhiên chúng ta không còn sống trong thời mông muội chỉ biết có thiên đường địa ngục, thời hiện đại này ta đã nhìn thấy những đơn vị vi mô và những thế giới khổng lồ lẩn khuất trong những đám bụi lân tinh nơi vùng trời xa xôi tăm tối. Visionary painter của thời hiện đại này là những người có thể đem đến cho ta trải nghiệm vượt qua mọi chiều kích, để ta nghiệm thấy sự liên hệ kỳ ảo giữa nhục thể tầm thường với cái vĩ đại không tưởng. Suy cho cùng, con người từ khi đi ra khỏi hang động đã luôn tiềm tàng trong họ hạt giống của sự tò mò, và đôi khi có những cá thể tò mò đột biến một mình đi vào trong khu rừng tối, ước ao sao một ngày được nhòm vào cái giếng của tạo hoá...

Một khía cạnh nhỏ thú vị nữa khiến tôi đặc biệt yêu thích phong cách nét cọ rối của chị, nếu bạn truy về tận cùng của một bức tranh, thì nét cọ chính là đơn vị tối giản bất khả phân của hội hoạ. Nó dao động cùng tần số với ba đơn vị bất khả phân trong khoa học nói trên.

Tuy nhiên, dù cho chị đã có một phong cách định danh, nhưng chị không đứng yên tại chỗ mà không ngừng thử nghiệm những phương pháp vẽ mới - khó hơn, tinh tế hơn, thách thức hơn - và một trong những old masters mà chị theo đuổi không ai khác ngoài Vermeer, có thể nói là đối nghịch hoàn toàn với phong cách biểu hiện đặc trưng của chị. Tôi đánh giá rất cao phẩm chất này, luôn nỗ lực không ngừng để nâng cao kỹ thuật, để đi đến tận cùng sự khéo léo của bàn tay, đẩy xa hết mức giới hạn khả năng của bản thân, là dấu ấn đích thực của một người nghệ sĩ.

Ở đây tôi chọn minh hoạ một bức tranh yêu thích của cá nhân mình, được vẽ bằng những nét cọ rối đặc trưng của chị Dương: khoảnh khắc một sinh mệnh ló dạng từ cửa mình người mẹ. Tôi luôn nghĩ rằng tạo nên một sinh mệnh mới là một nhiệm vụ thật huyền bí. Bạn tưởng tượng thử xem, mã di truyền của hai cá thể hoàn toàn độc lập được gói gọn trong những đơn vị vi mô, chúng va vào nhau rồi nhân lên với tốc độ không tưởng, bùng nổ như một supernova. Những nguyên tử bé nhỏ khởi đầu nhìn không khác gì cầu khuẩn ấy từ từ xuất hiện một trái tim, một nhánh xương cong, rồi đôi mắt, và rồi chúng mọc ra tay chân, hoá thân thành người. Và cái cảm giác khi đứa con chính thức lìa mình sau bao tháng trời bên nhau, để lại đằng sau một cái tử cung trống rỗng là một nỗi cô đơn cùng cực mà tôi đã từng đi qua với những giọt nước mắt. Chị Dương là một người mẹ, và tôi cũng là một người mẹ, nên tôi có thể đồng cảm với không chỉ bức tranh này, mà còn cả những bấp bênh làm nghề khi cả hai đều có những ưu tiên hơn cả tình yêu hội hoạ. Vì đây mà hè rồi về Việt Nam tôi đi tìm cuốn Trăm Năm Cô Đơn, và tôi cũng đi tìm cuốn Sự Bất Tử đã tuyệt bản để hiểu thêm về Agnes của chị, và rất may nhờ có một cô bạn tận tâm mà tôi đã tìm được.

Vốn định để dành bài viết này cho đến khi đọc xong Sự Bất Tử, nhưng vì sắp tới đây tranh của chị Dương cũng sẽ đến Paris cùng với gallery chúng tôi đang làm việc cùng nên tôi nghĩ đây có lẽ là thời điểm vừa đúng để mình biên ra đôi dòng cảm nhận. Được trưng tranh trong khuôn viên The Lourve là 1 trải nghiệm tuyệt vời, nhưng hơn nữa là tranh tôi sẽ được đứng kế tranh chị Dương - một hoạ sĩ mình yêu mến. Người chưa được gặp nhưng tranh đã thay mặt rồi, một ví dụ nhỏ về những cuộc gặp gỡ thú vị trong hội hoạ, một điều tôi luôn để tâm và trân trọng.

Gốm của Duy Mạnh: Đất trời lở máu by Phuong Nguyen

Mấy hôm nay đọc nhiều chia sẻ về 600 hecta rừng nguyên sinh sắp bị san bằng, nghĩ đến những cái đĩa gốm của anh Duy Mạnh.

Hồi đầu khi mới biết đến tác phẩm của anh, mình bị cuốn hút khi thấy cảnh sơn thủy trong hình hài của gốm lại gợi nên đau đớn xót xa của da thịt loài sinh vật sống, hay cụ thể hơn là của chính con người, nhưng càng quan sát lại thấy rõ hơn một khía cạnh khác: là thân phận của đất. Đất tự thân nó có sự sống và chất chứa trong nó là sự sống. Sâu trong lòng đất cứng là dòng chảy dung nham, những mảng kiến tạo dịch chuyển không ngừng đánh vỡ siêu lục địa ngày xưa thành những châu lục hiện tại, chúng không ngừng trồi, sụt, bùng nổ để tạo thành núi cao vực thẳm. Dù là đỉnh Everest hay là đáy vực Mariana, chúng là hiện hình của sự vận động không ngừng của đất.

Và đất cát đâu chỉ là đất cát. Những mảnh xương muôn loài qua tháng năm vỡ ra thành cát mịn. Hạt cát vô tri trượt qua kẽ tay ta đâu đó trong dòng chảy trăm triệu năm từng là một sinh thể sống.

Trong thời hiện đại này, đất tiếp nhận một hình hài mới qua bàn tay can thiệp ngày càng sâu rộng của con người. Có một thuật ngữ mình học được là terraform - địa khai hoá, thường dùng trong bối cảnh giả tưởng để chỉ việc cải tạo một hành tinh sao cho gần nhất với môi trường sinh quyển Trái đất để biến nó thành thuộc địa mới. Tuy nhiên địa khai hoá không chỉ thuần giả tưởng, con người đã và đang khai thác thiên nhiên đến mức chúng biến dạng khỏi hình thái nguyên sinh. Những khu mỏ, đập nước, thuỷ điện, rừng cao su, rừng cọ, đường cao tốc, quần đảo nhân tạo ở Dubai là những ví dụ tiêu biểu nhất về địa khai hoá. Đất bị nhào nặn, phá vỡ, đâm xuyên, bồi đắp... Thành những dáng hình mới để phục vụ cho nhu cầu của con người và chỉ riêng con người.

Nếu nghĩ về Trái Đất như một sinh thể sống, thì con người không khác gì một loại virus. Thường một cá thể loài nào quá đông thì tự nhiên sẽ chọn lọc sao cho tự nhiên về thế cân bằng. Con người thì khác, không có thiên địch, không sợ thiên tai, khoa học phát triển đẩy lùi bệnh tật và tuổi già, nên nhân lên với tốc độ chóng mặt. Và đâu đó đột biến những chủng đầy dã tâm, khai hoang lập địa không đơn thuần vì nhu cầu của số đông mà chỉ vì lòng tham của một vài cá thể.

Nghĩ về rừng... Hai mùa hè trước ở Calabria miền nam nước Ý, có những ngày bước ra ban công mà mũi nghe mùi khét, không phải vì hàng xóm nướng thịt mà vì ngọn núi đứng gần đang bốc lửa. Ngày thấy khói, đêm thấy lửa. Lái xe qua những ngọn đồi thấy lửa lan thành những vệt đỏ sáng rực trong đêm. Tại sao không dập lửa đi mà để chúng liếm sạch những mảng xanh ít ỏi còn sót lại như thế? Vì địa hình hiểm trở khó có thể triển khai nhân lực, chỉ có thể dùng trực thăng, mà trực thăng đâu có nhiều, mỗi chuyến tốn bao nhiêu tiền nhiên liệu, và người cầm lái vẫn phải nghỉ ngơi. Lửa thì khác, vẫn cháy âm ỉ, chỉ cần một cơn gió là bừng lên dữ dội.

Và nội trong năm nay thôi đã có hơn 20 đợt cháy rừng lớn được ghi nhận, trong đó Hy Lạp, Canada và Hawaii có lẽ là ba thảm hoạ trầm trọng nhất. Hơn 1.5 triệu hecta rừng bị cháy rụi ở British Columbia, và trận cháy này còn chưa qua. 600 so với 1 triệu rưỡi là con số không đáng kể, để ta thấy được mảng xanh đang biến mất với tốc độ ghê gớm như thế nào. Nhân loại đang ngồi trên đống lửa đúng nghĩa đen...

Khi mình nói với anh Mạnh về thân phận của đất mình thấy trong tác phẩm thì anh nói rằng thật ra dấu ấn của những món đồ gốm này là về thân phận con người. Mình nghĩ những mảng thịt hồng là phận đất xót thương bị con người khai hoá, nhưng nghĩ lại thì có lẽ máu đó là từ con người tuôn ra ướt đẫm ngọn đồi. Đất rồi sẽ phục hồi, thiên nhiên rồi sẽ lại nảy nở sinh sôi. Nhìn về thảm hoạ Chernobyl từng khiến hàng trăm triệu hecta rừng phơi nhiễm phóng xạ, mà chỉ 35 năm sau, nơi đây trở thành một thánh địa nơi cây cối nảy nở sinh sôi và động vật hoang dã chọn làm nơi an trú. Đấy, tự nhiên tự thân sẽ có cách của nó, chỉ có con người bị đẩy vào đường cùng mà thôi.

Mình yêu thích các tác phẩm của anh vì thường có hình ảnh tranh sơn thuỷ, gợi mình nhớ đến những chiếc đĩa sứ ngày xưa. Mình luôn có một sự ưu ái đặc biệt nơi tác phẩm được xây dựng trên cái nền cổ điển. Tranh sơn thủy từng là một cách ngợi ca sự hùng vĩ của tự nhiên và để thể hiện cái sự khiêm cung bé nhỏ của con người khi đứng đối diện nó. Mình cũng có sự yêu mến tự nhiên trong ngôn ngữ hội hoạ của riêng mình. Tự nhiên sẽ đi vào trong tranh và toả ra nơi ngòi bút nếu người vẽ luôn có thiên nhiên trong lòng.

Và anh Mạnh cũng vậy, quang cảnh toả ra từ chiếc đĩa gốm của anh vừa tráng lệ, vừa bi thương. Phản chiếu chính môi trường anh sinh sống - một tự nhiên tan nát. Vừa ve vuốt gợi nhớ một thời gian xưa cũ bình yên, vừa như một nhát cắt khiến ta phải mở mắt nhìn vào hiện thực đau đớn, bàng hoàng.

Bốn núi bủa vây, và những suy tưởng về số bốn by Phuong Nguyen

“Bốn núi”, ink wash and sumi on tea-dyed paper, 2020

“Bốn núi”, ink wash and sumi on tea-dyed paper, 2020

Bốn núi là một trong bộ tranh Haiku tôi hợp tác cùng với Pháp Hoan, và cũng là một trong những bài tôi đặc biệt yêu thích với sự chiêm nghiệm ngày một tỏ tường hơn sau mỗi lần đọc lại. Haiku quả thực có một sức mạnh riêng của nó, vì chỉ vỏn vẹn ba dòng, đọc xong không cần đến mười giây, nhưng sự cô đọng đó chừa ra một khoảng trống, không chỉ giản đơn là phần còn lại của trang giấy mà cả trong lòng, để ta phải tìm một ý nghĩa riêng đặng lấp đầy nó. Mỏng mà nặng. Đây là một trong những tác phẩm thuộc về category đó.

Bốn núi bủa vây

một sáng thức dậy

thấy mình là cây.

-Pháp Hoan

Gần đây tôi có một số suy nghĩ về bài thơ này cũng như ý nghĩa đằng sau cụm từ “Bốn núi”

Số bốn trong văn hóa phương Đông là một con số kỳ lạ. Trước tiên, nó là một con số chứa đựng trật tự và sự tiếp diễn, trong tự nhiên ta có bốn mùa, một năm chia làm bốn quý, một tháng chia làm bốn tuần… Trong Nông Lịch - một loại lịch cổ xưa dựa theo những quan sát từ tự nhiên mà vùng Đông-Nam Á mà các nước chịu ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa sử dụng - thì lại có thêm khái niệm về Thiên Can Địa Chi cùng nhau hợp lại tạo thành Lục Thập Hoa Giáp là chu kỳ 60 năm, đây là một trong những tinh hoa không gì thay biến được trong văn hóa Á Đông và tới nay vẫn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống hằng ngày, quyết định phương hướng và thời gian, những dịp lễ hội, cúng kiến, cưới xin, sanh đẻ….

Nhưng ở đây tạm bỏ qua để tiếp tục diễn giải về số 4. Có 10 Thiên Can và 12 Địa Chi. 10 can này (canh, tân, nhâm, quý, giáp…) tượng trưng cho các số 0,1,2,3 và cũng chính là 10 năm, và mỗi chu kỳ của nó bắt đầu ở những năm tận cùng mang số 4, như 1984, 1994… Giáp Tý chính là năm khởi đầu cho một chu kỳ 60 năm mới. Trái Ngược với tư duy phương Tây khi khởi đầu thường được gắn với số 1 thì trong Lục Thập Hoa Giáp số 4 (hành Mộc, tính dương) mới chính là khởi nguồn.

Kinh dịch diễn giải, "lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng". Trong tư duy phương Bắc nơi mà thành tố âm - dương là nền tảng cho mọi suy tưởng, rằng vũ trụ và vạn vật sản sinh từ “lưỡng nghi” phân đôi thuần túy và do đó số chẵn được ưu ái, thì hẳn nhiên số 4 một lần nữa trở thành một biểu tượng quan trọng do gắn liền với tứ linh. Dễ thấy những cụm từ như tứ sinh, tứ chính, tứ quý, tứ trụ, tứ mã,... Nói tóm lại, số 4 là một con số không hề tầm thường mà dường như sở hữu một sức mạnh chi phối quy luật vận hành của tự nhiên mà con người đúc kết ra sau nghìn năm cộng sinh, quan sát cách thế giới xoay vòng. Nếu nói số 4 sở hữu thần khí trong nó hẳn cũng không ngoa.

Tuy nhiên trong thực tế thì số 4 lại là con số người Á Đông sợ hãi nhất, bởi cách phát âm của nó gần với cái chết (Tử). Rất nhiều bệnh viện, chúng cư ở Trung Quốc, Hongkong, Đài Loan, Hàn Quốc… loại bỏ hẳn tầng 4, và các tầng có mang số 4 vì khi con số 4 không đứng một mình nó còn tiềm ẩn những thông điệp đáng sợ hơn. Ví dụ như số 14 đọc lên nghe như "muốn / sắp chết" (要死), và 74 như "chắc chắn sẽ chết" hoặc "sẽ chết trong giận dữ "(氣死).

Tu

Theo ảnh này, thì từ nguyên của số 4 四 có khởi thủy từ Giáp Cốt Văn 甲骨文 - một loại cổ thư Trung Quốc từ thời Ân - Thương (1766 - 1122 TCN) được viết trên mai rùa (Giáp) và xương thú (Cốt). Ban đầu thì số 4 được viết đơn giản chỉ gồm bốn nét hoành, sau đó thì vay mượn từ “hơi thở” - hình tượng hóa một sống mũi đang thực hành sự thở - và sau thời gian dài sử dụng, “mượn mà không trả” thì số 4 đã chính thức được viết thành 四 cho đến nay.

Trong Thế giới Mật Tông (1), Osho đã đề cập đến sự thở như một nhịp cầu dẫn đến vũ trụ.

Tantra: “Hơi thở ra là sự chết. Hơi thở vào là tái sinh. Hơi thở vào được sinh ra lần nữa, và hơi thở ra lại mang ta về cõi chết.”


Hãy hiểu hơi thở dừng lại, bạn đang chết. “Bạn vẫn đang là nhưng bạn chết”, chết trong khoảnh khắc. Thời gian của một đời người rất ngắn ngủi. Chỉ trong một hơi thở và không bao giờ biết được rằng: “Mình đã chết bao nhiêu lần trong quá khứ, đang chết bao nhiêu lần trong hiện tại và tiếp diễn bao nhiêu lần như thế trong tương lai.”…

Hơi thở ra đồng nghĩa với sự chết. Hơi thở vào đồng nghĩa với tái tạo. Trong mỗi hơi thở có đầy đủ sự sống và sự chết. Cái chết hiện hữu trong mỗi sát na, mỗi khoảng cách; còn khoảng giữa hai hơi thở là đời sống ngắn ngủi.

-Osho

Như vậy, là hiển nhiên hoặc không, hàm chứa trong số bốn với thanh âm nhắc nhở ta về cái chết, là hơi thở, là một vòng tròn liên tục và tuần hoàn của sinh và diệt.

Trong Phật học, vạn vật sinh ra đã mang trong mình Bốn nỗi khổ lớn: sinh, lão, bệnh, tử. Đây là lẽ tự nhiên và là quy luật cuộc đời không ai thoát khỏi. Có lẽ không chỉ con người và vạn vật trên Địa Cầu mà cả vũ trụ bao la này. Thành - Trụ - Hoại - Diệt. Từ đâu sự sống hiển hiện rồi sinh sôi? Từ đâu thái dương hệ thành hình? Ở trung tâm sự sống là một hố đen hủy diệt. Những hành tinh và mặt trời trẻ trung tỏa sáng rực rỡ rồi sẽ có ngày già đi và tàn lụi. Vật chất tự thân nó đã chứa đựng phản vật chất. Trong một tương lai xa xăm khôn cùng mà thân phận con người bé nhỏ không thể khái quát nổi, vũ trụ rồi sẽ chìm vào trong băng giá và lặng yên, một giấc ngủ dài sâu tịch huyền. Cái chết.

Ở trên ta đã đọc về từ nguyên của số Bốn 四 và rõ ràng nó là khắc họa, tượng hình hóa hình ảnh sống mũi và sự thở. Nhưng trong Hán tự hiện đại, thì số Bốn 四 trông giống như chữ Nhân 人 bị nhốt chặt trong một hình vuông. Nói cách khác, con người sinh ra đã bị trói chặt trong Bốn nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử và không có cách nào anh ta có thể trốn chạy khỏi nó.

Tuy nhiên, vì có nỗi khổ tồn tại nên con người mới đi tìm sự cứu rỗi. Bên cạnh cái chết là tái sinh, nỗi khổ chính là tiền đề của Phật Giáo, hoàng tử Gautama Siddhartha vì muốn thoát khỏi KHỔ nên mới từ bỏ ngai vàng đi bôn ba khắp nơi. Trong hành trình tìm sự khai sáng, Đức Phật đã có bốn lần gặp gỡ: một người già, một người bệnh, một xác chết, và rồi một thiền sư dưới một gốc cây. Ngài đã suy tưởng về tuổi già, bệnh tật, cái chết, rồi ngồi xuống thiền định cùng nhà sư này. Trốn chạy khỏi cuộc sống không phải là cách để thoát khỏi luân hồi, mà chỉ có đối diện với nó, tu tập, thực hành một cuộc sống đầy tình thương và lòng trắc ẩn mới cứu rỗi được linh hồn con người. Vậy là bên cạnh bốn nỗi thống khổ, ta cũng có bốn chân lý cao cả - Tứ Diệu Đế - là kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật và cũng là cái gốc của Phật Giáo.

unnamed (2).jpg

Bản thân chữ Nhân 人 cũng là một chữ vô cùng đơn giản cổ xưa từ thời Giáp Cốt Văn cho đến nay vẫn được viết như vậy, không có nhiều thay đổi. Chỉ khác là trong Giáp Cốt Văn thực tế lấy từ góc nhìn nghiêng của một con người, tay rủ trước người cúi khom lưng, chiếu từ xung quanh thì dễ thấy đây là hình dáng thường ngày của con người chúng ta, càng trưởng thành càng chùng xuống. Vì lao tâm khổ tứ và dưới sức nặng của thời gian, tuổi tác.

Theo Chiếu Viễn (2), kết cấu chữ Nhân gồm một nét phẩy và một nét mác. Phía bên trái là dương, bên phải là âm, do vậy nét phẩy bên trái, nét mác bên phải hợp thành chữ Nhân 人. Trong thuyết Âm Dương, tinh thần con người thuộc về tính Dương, đối nghịch với thể xác thuộc về Âm. Trong niềm tin của các nước Á Đông thì thể xác chỉ như một vật chứa đựng, có thể bị tổn thương, bị hủy hoại, rã thành đất cát, còn tinh thần hay linh hồn mới là chủ thể, quyết định Ta chính là Ta. Không chỉ những bậc thánh hiền Đông Phương mà trong cả Tây Phương đều đồng thuận rằng một cuộc sống viên mãn không được quyết định bằng vật chất mà chính một đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú mới là cái mang đến cho ta hạnh phúc đích thực. Chiếu theo tháp Maslow, nơi đáy tháp là những nhu cầu hằng ngày giúp thân thể sinh hoạt, tồn tại, và nơi đỉnh tháp chính là Tỉnh Thức - khi ta muốn đạt đến cảnh giới cao cả nhất trong cuộc đời. Đấy mới chính là Đắc đạo.

Khi một con người không còn ham muốn học hỏi mà chỉ chạy theo tiền tài, danh vọng, đuổi theo những ham muốn thỏa mãn dục vọng cá nhân đến mức suy đồi đạo đức thì tự bản thân họ đã từ bỏ đi Đạo làm Người. Chữ Người 人 bị đảo ngược, tạo thành chữ Nhập 入.

“Nhập” chính là: nhập mê, nhập vào dục vọng, nhập vào ngu dốt, cuối cùng tiến nhập vào địa ngục.

Như vậy, hàm trong Tứ 四 là Nhập? Hay Nhân? Là con người bị trói buộc trong Khổ Tứ - sinh, lão, bệnh, tử hay đang được bao bọc trong bốn chân lý cao cả - Tứ Diệu Đế, để cuối cùng bứt mình khỏi luân hồi, tan biến vào hư không, đến sự cứu tuyệt rỗi đối?

Bốn núi bủa vây theo cảm nhận của tôi chính là bốn bức tường trong số Bốn. Một con người bơ vơ giữa thung lũng, nhìn lên trời xanh, đôi tay anh đã bao lần trèo lên vách đá đến chai sần nhưng vô vọng.

Hóa thành cây. Từ bỏ đi hơi thở. Từ bỏ đi những tham, sân, si, những gì trói buộc ta với hồng trần để tâm thân thanh thản cùng thiền định, chính là cánh cửa để bước ra khỏi thung lũng đó.


Bài viết có tham khảo tài liệu

(1)Thế giới Mật điển (Osho)

(2) Chiết tự chữ Nhân từ tác giả Chiếu Viễn